Trong khi đó, Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và Thông tư số 14/2021/TT-NHNN sẽ hết hiệu lực trong vài tháng tới, khiến áp lực xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD kể từ quý 3/2022 là rất lớn. Do vậy, các giải pháp mạnh mẽ để xử lý triệt để nợ xấu, đặc biệt các giải pháp liên quan đến khung pháp lý, cần phải được đặc biệt chú trọng trong năm 2022 để nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, tránh tình trạng nợ xấu cũ chưa được xử lý, nợ xấu mới gia tăng nhanh hơn nhằm tháo gỡ rủi ro tiềm tàng cho nền kinh tế.

Chính phủ nên xem xét đề xuất Quốc hội sớm tổng kết Nghị quyết 42, tiến tới luật hóa Nghị quyết 42 trên cơ sở rà soát, hoàn thiện và hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan; hoặc ít nhất là gia hạn, có điều chỉnh phù hợp Nghị quyết 42 theo hướng tiếp thu các mặt được, giải quyết các tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực thi.

Kiến nghị này được đưa ra dựa trên những luận điểm sau: Thực tế chứng minh Nghị quyết 42 đã mang lại rất nhiều kết quả tích cực cho công tác xử lý nợ xấu, trong đó có 4 kết quả nổi bật:

Thứ nhất, việc triển khai Nghị quyết 42 đã được thực hiện nghiêm túc, mang lại kết quả tích cực. Theo số liệu được công bố gần đây nhất của NHNN, lũy kế từ thời điểm Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực (tháng 8/2017) đến hết tháng 8/2021, hệ thống các TCTD đã nhận diện 424,1 nghìn tỷ đồng nợ xấu và đã giải quyết được 364,1 nghìn tỷ đồng (khoảng 86%) theo Nghị quyết 42.

Thứ haiđã góp phần hoàn thiện thể chế, khung pháp lý cho công tác xử lý nợ xấu. Sau khi Nghị quyết 42 đi vào triển khai, nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện của Chính phủ, NHNN, Bộ Tư pháp, Tòa án Nhân dân tối cao v.v. đã được ban hành đã giúp Nghị quyết 42 đi vào thực tiễn. Tiêu biểu như: Văn bản số 609/NHNN-TTGSNH ngày 24/1/2018 của NHNN về chỉ đạo tăng cường xử lý nợ xấu, nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện NQ 42; Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, TSĐB của khoản nợ xấu tại TAND; văn bản số 3022/TCTHADS-NV1 của Tổng cục thi hành án ngày 15/8/2017 hướng dẫn một số nội dung liên quan đến triển khi NQ số 42/2017/QH14...

Cùng với đó là văn bản hướng dẫn hoạt động, nâng cao năng lực tài chính cho VAMC, qua đó tăng tốc độ, hiệu quả xử lý nợ xấu hơn. Với những văn bản này có thể nói hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu tại Việt Nam đã có bước tiến lớn so với trước kia và đã tương đối hoàn thiện, tiệm cận thông lệ quốc tế hơn.

Thứ bagiúp đẩy nhanh hơn tốc độ xử lý nợ xấu, góp phần quan trọng vào thực hiện thành công Đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định 1058/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể, cũng theo số liệu công bố mới nhất của NHNN, xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 với mức trung bình khoảng 7,15 nghìn tỷ đồng/tháng (giai đoạn từ 15/8/2017 đến hết tháng 8/2021), gấp hơn 2 lần so với mức 3,63 nghìn tỷ đồng/tháng của giai đoạn 2012-2017 trước khi có Nghị quyết 42.

Thứ tưthay đổi nhận thức của người dân, doanh nghiệp cũng như nhận thức về trách nhiệm của cơ quan liên quan như công an, tòa án, địa phương… đối với công tác xử lý nợ xấu.

Những văn bản hướng dẫn thực thi Nghị quyết 42 dần được ban hành, phần nào thể hiện được nỗ lực vào cuộc của các cấp, ngành và địa phương. Đặc biệt, nhận thức, thiện chí của bên vay trong việc giải quyết nợ xấu đã được tăng lên, góp phần đáng kể vào kết quả xử lý nợ xấu thời gian qua.

Theo NHNN, kể từ khi triển khai Nghị quyết 42 đến hết tháng 6/2021, quy mô nợ xấu nội bảng theo Nghị quyết 42 được khách hàng trả nợ là 138,34 nghìn tỷ đồng (chiếm 38,5% tổng nợ xấu theo Nghị quyết 42 đã xử lý), cao gần gấp đôi mức trung bình giai đoạn 2012-2017 là 22,8%. Điều này minh chứng rõ nét về ý thức trả nợ của khách hàng đã được nâng lên.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị quyết 42 vẫn còn 5 vướng mắc chính, như: còn nhiều vướng mắc trong xử lý tài sản đảm bảo liên quan đến quyền thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) của TCTD;  Việc mua, bán, sang tên TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; Vướng mắc về thực hiện thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSBĐ và việc nộp thuế chuyển nhượng TSBĐ; Thiếu thông tin về hiện trạng TSĐB và  khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự.

Bên cạnh đó, khâu định giá, thẩm định giá khoản nợ và TSĐB còn nhiều khó khăn. Hiện số lượng hồ sơ được áp dụng theo thủ tục rút gọn rất hạn chế. Trên thực tế, chỉ cần bên vay không thống nhất với TCTD về dư nợ hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt hay từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo đảm…v.v. thì Tòa án sẽ không áp dụng thủ tục rút gọn; Việt Nam vẫn còn thiếu vắng một thị trường mua bán nợ chính thức thực sự.

Vì lẽ đó, việc luật hóa Nghị quyết 42 sẽ góp phần quan trọng giải quyết những vướng mắc lớn nêu trên. Đồng thời, nợ xấu là vấn đề liên tục, luôn hiện hữu của ngành ngân hàng và có xu hướng gia tăng. Do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ xấu gộp sau khi suy giảm liên tục từ năm 2016 thì đến cuối năm 2021 đã tăng mạnh, quay lại mức gần tương đương với giai đoạn đầu triển khai Nghị quyết 42. Quy mô nợ xấu cũng sẽ ngày càng gia tăng khi quy mô tín dụng của hệ thống các TCTD cũng ngày một tăng lên. Ngoài ra, việc luật hóa xử lý nợ xấu cũng góp phần hoàn thiện, tăng hiệu lực, hiệu quả của công tác thể chế, một trong ba đột phá chiến lược tiếp tục được Đại hội Đảng XIII lựa chọn, thông qua.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hướng luật hóa, hoàn thiện khung pháp lý xử lý nợ xấu cũng rất được quan tâm bởi các nền kinh tế lớn. Trên thực tế, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nợ xấu của hệ thống tài chính cũng trở thành mối lo ngại lớn cho nhiều quốc gia trên thế giới. Ví dụ mới đây nhất, để tạo tiền đề giải quyết nợ xấu, Liên minh Châu Âu EU vừa thông qua chỉ thị (EU) 2021/2167 về đối tượng cung cấp dịch vụ tín dụng và đối tượng mua các khoản tín dụng  hay còn được gọi là chỉ thị nợ xấu, có hiệu lực từ ngày 28/12/2021.

Chỉ thị này cùng với các hành động khác của các cơ quan có thẩm quyền Châu Âu, sẽ cung cấp khung khổ pháp lý và các yêu cầu chung để góp phần tạo ra một thị trường thứ cấp thống nhất, thích hợp cho các TCTD xử lý nợ xấu trên bảng cân đối kế toán và giảm thiểu rủi ro tích lũy nợ xấu trong tương lai.

Hướng luật hóa Nghị quyết 42 có thể được tiến hành theo 2 bước:  Bước một là có thể gia hạn, điều chỉnh, cập nhật phù hợp Nghị quyết 42 với thời gian khoảng 3 năm để có thêm thời gian rà soát, chuẩn bị cho dự thảo luật, cũng như kịp thời tháo gỡ những vướng mắc nêu trên; Bước 2 là xây dựng Luật xử lý nợ xấu theo hướng phù hợp với thị trường và thông lệ quốc tế hơn.

Theo https://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/nhung-de-xuat-va-kien-nghi-xu-ly-no-xau-theo-huong-thi-truong-345684.html