ĐBQH Phan Đức Hiếu: Cơ cấu lại nền kinh tế cần tập trung vào cơ chế phân bổ nguồn lực hiệu quả, đúng đối tượng, nhanh nhất. Ảnh: VGP/Lê Sơn |
3 yếu tố vừa tạo ra cơ hội, vừa là thách thức trong cơ cấu lại nền kinh tế
Đánh giá kết quả tái cơ cấu nền kinh tế thực hiện trong giai đoạn vừa qua được Chính phủ báo cáo trước Quốc hội, ĐBQH Phan Đức Hiếu cho rằng, báo cáo của Chính phủ đã thẳng thắn chỉ ra những kết quả đã đạt được, chưa được và nguyên nhân. Chính phủ đã nêu rõ, sau 5 năm triển khai thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 đã đạt được những kết quả tích cực. Qua đánh giá cho thấy có 17/22 mục tiêu của Kế hoạch đã được hoàn thành, đạt khoảng 77,3% tổng số mục tiêu đề ra. Có 5 mục tiêu không hoàn thành, chiếm 22,7% tổng số mục tiêu, bao gồm về cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại đầu tư công, về phát triển doanh nghiệp và đào tạo lao động. Rõ ràng đại dịch COVID-19 là một nguyên nhân có ảnh hưởng mạnh đến thực hiện kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn vừa qua.
Ngoài ra, còn có các yếu tố khác cũng đã ảnh hưởng đến các kết quả đạt được, bao gồm cả nguyên nhân chủ quan cũng được Chính phủ đã chỉ ra, đó là: Nhận thức một số vấn đề về cơ cấu lại nền kinh tế vẫn chưa sâu sắc, thống nhất, như về vai trò và mối quan hệ Nhà nước-thị trường-xã hội, phân bổ nguồn lực thông qua thị trường các nhân tố sản xuất, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế tư nhân... dẫn đến nhiều nơi, nhiều lúc cơ cấu kinh tế theo phong trào, chỉ mang tính hình thức mà không thực chất.
Đề cập đến những yếu tố mới nào sẽ tác động đến kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế gắn phục hồi tăng trưởng kinh tế? ĐBQH Phan Đức Hiếu nhìn nhận, thời gian tới, ít nhất có 3 yếu tố cần phải được nhận thức sâu sắc, nghiên cứu và tính toán kỹ trong xây dựng và tổ chức thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế.
Thứ nhất, chúng ta đã xây dựng Chiến lược và Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội cho giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 với mục tiêu được đặt ra là phấn đấu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải có sự bứt phá trong cả giai đoạn chiến lược với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm phải cao hơn so với mức bình quân 6,7% giai đoạn 2016-2019, chưa tính đến tác động của COVID-19 năm 2020-2021.
Thứ hai, tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đến tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, có tác động sâu sắc tới hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế của từng quốc gia, làm thay đổi sâu sắc bản chất thương mại và đầu tư trong nước, toàn cầu. Điều này đòi hỏi tư duy kinh doanh, quản lý mới, phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội mới, như tư duy về xây dựng thể chế cần phải thay đổi: Không phải là số hóa các thủ tục, quy định hành chính mà ngược lại phải là thiết kế thủ tục, quy định trên tư duy kinh doanh số.
Thứ ba, tác động dịch bệnh COVID-19 thời gian qua dẫn đến thay đổi hành vi kinh tế-xã hội và quan hệ kinh tế quốc tế; chuyển dịch chuỗi, đa dạng quan hệ thương mại, chuỗi trong nước và quốc tế, quan hệ thương mại đa phương, song phương, xu hướng kinh doanh bền vững và có nhiều yếu tố khó đoán định tác động đến đời sống kinh tế-xã hội … Vì thế đặt ra yêu cầu mới cho phát triển bao gồm: Sức chống chịu, thích ứng linh hoạt, năng động của nền kinh tế, điều này đòi hỏi năng lực quản trị quốc gia tốt.
Những yếu tố này vừa tạo ra cơ hội, vừa là thách thức rất lớn cho trong thời gian tới. Điều này cũng một lần nữa cho thấy vai trò quan trọng của nâng cao năng lực quản trị quốc gia.
Nguồn nhân lực phải là trọng tâm, trụ cột riêng
“Thực tiễn vừa qua và yêu cầu phát triển mới đã cho thấy nguồn lực con người trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi nhân lực là nền tảng cho chuyển đổi và quản trị sự thay đổi. Trong bối cảnh mới đặt ra thách thức mới, lao động giản đơn, giá rẻ đang dần chuyển từ một lợi thế thu hút đầu tư dần trở thành điểm nghẽn cho sự tăng trưởng và phát triển. Tình trạng di cư lao động và tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động thời gian gần đây do tác động của dịch COVID-19 cho thấy vấn đề nguồn lực lao động trở lên quan trọng hơn. Vấn đề không chỉ dừng lại ở chất lượng lao động mà còn là hệ sinh thái cho người lao động, chỗ ở, môi trường sống của họ”, ĐB Hiếu chia sẻ.
Với tầm quan trọng như trên, ĐBQH Phan Đức Hiếu mong muốn vấn đề nguồn nhân lực phải là một trọng tâm, một “trụ cột riêng” trong nội dung Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, bao gồm tổng thể các giải pháp cho cả lao động trong doanh nghiệp và khu vực công.
Nâng cao năng lực quản trị quốc gia theo hướng hiện đại
Theo ĐBQH Phan Đức Hiếu, mục tiêu của Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế là tạo ra thay đổi về cách thức điều hành nền kinh tế, tập trung vào cơ chế phân bổ nguồn lực hiệu quả, ít tốn kém, đúng đối tượng, nhanh nhất. Tác động của dịch COVID-19 vừa qua trên thế giới và ở nước ta đã cho thấy nhiều bài học hữu ích và không chỉ cho riêng Việt Nam mà cho nhiều quốc gia khác. Đó là năng lực quản trị quốc gia cần thích ứng với năng lực dự báo, quyết định nhanh nhưng phải chính xác, toàn diện đối với các vấn đề khó, thậm chí chưa có tiền lệ,... Những điều này trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Thời gian qua, mặc dù chúng ta đã rất gắng sức vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế, nhưng cũng cho thấy một số vấn đề nổi lên như: Sự phối hợp chưa thực sự tốt giữa các địa phương, bộ và các cơ quan, việc tổ chức thực hiện chưa đầy đủ và kịp thời một số giải pháp của Chính phủ. Đây là đòi hỏi để thể chế hóa một trong 3 đột phá chiến lược của Chiến lược phát triển phát triển kinh tế 2021-2030: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội.”
Ngoài ra, Chính phủ đang xây dựng Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế. Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế rõ ràng cũng phải tính đến giải pháp tạo nền tảng giúp kế hoạch phục hồi và phát triển kinh tế được thực hiện kịp thời hơn, hiệu quả hơn. Về nội dung, ông Hiếu đánh giá nhiều giải pháp nêu trong Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế đã thể hiện được nguyên tắc gắn với kế hoạch phục hồi kinh tế.
Như vậy, cải cách thể chế không chỉ là cải cách môi trường kinh doanh cho người dân, doanh nghiệp mà còn bao gồm cải cách thể chế cho nâng cao năng lực quản trị quốc gia, như: Năng lực dự báo, hiệu quả phối hợp, tính nhanh chóng và kịp thời, chủ động ra quyết định với chất lượng cao, tính thích ứng và ứng phó hiệu quả với biến động khó lường,…
Lê Sơn – Nguyễn Hoàng