Bộ TN&MT đề xuất thành lập ban chỉ đạo để đưa ra những cơ chế, chính sách, tạo môi trường thuận lợi và tận dụng các cơ hội huy động nguồn lực ứng phó BĐKH theo các cam kết tại COP26. Ảnh: VGP/Thu Cúc |
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, tại COP26, Việt Nam đã tham gia nhiều sáng kiến rất quan trọng, như cam kết không xây dựng mới điện than, cam kết về bảo vệ rừng và sử dụng đất hợp lý, tham gia liên minh thích ứng với BĐKH toàn cầu; cùng các quốc gia thảo luận dẫn đến đồng thuận thông qua gói Thỏa thuận khí hậu Glasgow. Đây là những cam kết có trách nhiệm của Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, hòa cùng với xu thế chung của nhân loại và xu thế hành động mạnh mẽ về phát triển ít phát thải
Mọi hành động dựa vào tự nhiên, lấy người dân làm trung tâm
Bộ trưởng Trần Hồng Hà một lần nữa khẳng định, một trong những phát biểu được đánh giá cao tại COP26 chính là cam kết của Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định Việt Nam cam kết mạnh mẽ đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Đây là nội dung quan trọng thể hiện quyết tâm và cam kết chính trị của Đảng, Nhà nước trong việc đẩy mạnh chuyển đổi kinh tế nhằm góp phần giải quyết khủng hoảng khí hậu.
Thủ tướng đã đề nghị đưa ứng phó với BĐKH, phục hồi tự nhiên phải trở thành ưu tiên cao nhất trong mọi quyết sách phát triển, là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của mọi cấp, mọi ngành, mọi doanh nghiệp và người dân. Mọi hành động phải dựa vào tự nhiên, lấy người dân làm trung tâm, là chủ thể để phát triển bền vững. Điều đó thể hiện tầm nhìn và định hướng của người đứng đầu Chính phủ về phát triển kinh tế-xã hội đất nước trong giai đoạn tới, nhằm hiện thực hoá mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định: “Đây là lần đầu tiên thế giới đưa ra được lộ trình cắt giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ. Để thực hiện lộ trình này, đòi hỏi tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam phải chuyển đổi mạnh mẽ sang phát triển phát thải thấp; đồng thời sẽ tác động mạnh mẽ đến mọi mặt về chính trị, ngoại giao, kinh tế và thương mại toàn cầu trong thời gian tới. Ứng phó với BĐKH trên toàn cầu và ở nước ta đã chuyển sang một giai đoạn mới, đòi hỏi Việt Nam phải tham gia sâu và thực chất vào nỗ lực chung của toàn cầu”.
Tại COP26, vấn đề chuyển đổi sang năng lượng sạch và nhanh chóng chấm dứt sử dụng than được thúc đẩy mạnh mẽ. Các nguồn tài chính quốc tế cho phát triển điện than sẽ sớm chấm dứt và chuyển sang tập trung hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn, duy trì và phát triển rừng, bảo vệ các hệ sinh thái.
Nhiều nền kinh tế lớn đưa ra cam kết tài chính mới. Mỹ và Nhật Bản đều tuyên bố đóng góp 10 tỷ USD trong 5 năm tới, Italy cam kết đóng góp 1,4 tỷ USD mỗi năm… Hơn 450 ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư và các công ty tài chính (quản lý vốn tới 130.000 tỷ USD) đã cam kết sử dụng quỹ của họ để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Lãnh đạo các quốc gia đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của khu vực tư nhân trong việc tham gia chuyển đổi kinh tế xanh, thích ứng với BĐKH. Với hàng trăm nghìn tỷ USD trên thị trường, khu vực tư nhân dự kiến mang lại “triển vọng thực sự duy nhất để đạt được sự chuyển đổi nền kinh tế cơ bản”.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, các cam kết mạnh mẽ và những ý kiến đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam tại COP26 được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, mở ra nhiều cơ hội hợp tác về tăng trưởng ít phát thải, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, thích ứng với BĐKH.
Các đối tác phát triển trong và ngoài nước đã thể hiện mong muốn và cam kết hợp tác với Việt Nam để triển khai thực hiện các cam kết sau hội nghị. Việc cam kết đưa phát thải ròng về “0” và tham gia cam kết giảm phát thải methane đã gửi đi tín hiệu mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế, khai thông cơ hội tận dụng sự dịch chuyển của nguồn tài chính toàn cầu cho phát triển ít phát thải vào Việt Nam.
Thể chế hóa các hành động triển khai ứng phó với BĐKH
Chia sẻ về những hành động của Việt Nam triển khai các cam kết tại COP26, Phó Cục trưởng Cục BĐKH, Phó Trưởng ban công tác đàm phán của Việt Nam về BĐKH Phạm Văn Tấn cho biết, các hành động triển khai sẽ được thể chế hóa, đưa vào các văn bản pháp lý. Đây là cơ sở quan trọng thể hiện sự chuyển biến từ nhận thức sang hành động. Việt Nam quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với BĐKH toàn cầu.
Cụ thể: Ban hành Nghị định quy định giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon; Danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính; Hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với BĐKH cấp quốc gia; Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam; các quy định của các bộ, ngành hướng dẫn thực hiện giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, kiểm kê khí nhà kính và đo đạc, báo cáo, thẩm định để triển khai thực hiện. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng thực hiện các cam kết về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính thực hiện Thoả thuận Paris của Việt Nam, đáp ứng các yêu cầu minh bạch quy định tại Bộ quy tắc hướng dẫn thực hiện Thoả thuận Paris.
Bộ TN&MT sẽ xây dựng Đề án nhiệm vụ, giải pháp đột phá triển khai kết quả Hội nghị COP26 về BĐKH; đề xuất thành lập Ban chỉ đạo để đưa ra những cơ chế, chính sách, pháp luật, quy hoạch, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi và tận dụng các cơ hội huy động nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển hạ tầng ứng phó với BĐKH và phát triển năng lượng tái tạo.
Cùng với đó, rà soát, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan phù hợp với mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; tích cực, chủ động tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn lực tài chính, công nghệ, tăng cường năng lực triển khai Thỏa thuận Paris và các cam kết được Thủ tướng Chính phủ tuyên bố tại Hội nghị COP26.
Đặc biệt, Bộ TN&MT sẽ hoàn thiện cập nhật Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050, bao gồm mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; xây dựng Kế hoạch hành động giảm phát thải khí methane đến năm 2030; triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh góp phần đạt được mục tiêu cam kết.
Ngoài ra, Bộ TN&MT cũng sẽ phối hợp với Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành, địa phương liên quan triển khai điều tra khảo sát biển phục vụ quy hoạch phát triển điện gió ngoài khơi gắn với Quy hoạch không gian biển quốc gia, triển khai áp dụng các công cụ định giá cacbon, bao gồm thuế cacbon và phát triển thị trường cacbon trong nước; tuyên truyền, nâng cao nhận thức, năng lực cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân để tham gia các cơ chế thị trường, phi thị trường.