Lực lượng dẫn dắt thị trường

Thông tin này đã được các diễn giả đưa ra tại Hội thảo Đánh giá 500 DNTN lớn nhất Việt Nam do Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia (NCIF - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp với Viện Konrad-Adenauer-Stiftung (KAS) tổ chức sáng 10/8 tại Hà Nội.

TS. Lương Văn Khôi - Phó Giám đốc NCIF cho rằng: DNTN đang khẳng định vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Khu vực này có số lượng trên 650 nghìn DN nhưng đa số là DN nhỏ và rất nhỏ, và thị phần chỉ tập trung vào một số DN quy mô lớn.
Hình ảnh: Cần có chính sách cụ thể cho các doanh nghiệp tư nhân lớn số 1
Ông Trần Toàn Thắng - Trưởng Ban Dự báo Kinh tế ngành và doanh nghiệp của NCIF chia sẻ kết quả báo cáo đánh giá VPE500.
Với vai trò quan trọng trong tăng trưởng và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế của khu vực DNTN, Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF) phối hợp với Viện Konrad-Adenaeur-Stiftung Vietnam (KAS) soạn thảo và thực hiện "Báo cáo đánh giá 500 DNTN lớn nhất Việt Nam (VPE500)".

Theo ông Florian Constantin Feyerabend - Trưởng Đại Diện Konrad-Adenauer-Stiftung Việt Nam, top 500 DNTN lớn nhất Việt Nam có vai trò dẫn dắt thị trường. Do đó, sức khỏe và hiệu quả hoạt động của những DN này là chỉ số quan trọng để đánh giá nền kinh tế tư nhân và cả nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Trong số 500 DNTN lớn nhất Việt, 10 DN dẫn đầu gồm: Thế giới Di động, Vincommerce, THACO, Công ty CP Sữa Việt Nam, Vinpearl, Công ty CP Xây dựng và Kinh doanh địa ốc Hòa Bình, Thép Hòa Phát, Công ty CP Đầu tư Hòa Bình, Bách Hóa Xanh và Công ty CP Hòa Phát Dung Quất.
Chia sẻ về kết quả nghiên cứu, ông Trần Toàn Thắng- Trưởng Ban Dự báo Kinh tế ngành và doanh nghiệp của NCIF cho biết: nhóm VPE500 hoạt động vượt trội so với DN tư nhân trong nước nói chung trên khía cạnh quy mô và kết quả kinh doanh bình quân cũng như tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu và liên kết DN.

Trung bình giai đoạn 2016-2019, quy mô lao động và tổng tài sản bình quân của một DN thuộc VPE500 cao gấp hơn 83 lần và hơn 132 lần DN tư nhân trong nước nói chung, doanh thu thuần gấp khoảng 123 lần. Tỷ lệ DN có xuất khẩu lên tới 58,0% so với 7,73% của các DN tư nhân còn lại.

Nhờ quy mô và kết quả hoạt động vượt trội nên VPE500 chiếm tỷ lệ nhỏ về số lượng DN nhưng đóng góp lớn vào hoạt động của DN tư nhân trong nước. Bình quân giai đoạn 2016-2019, VPE500 chỉ chiếm 0,089% tổng số DN nhưng tạo việc làm cho 10,4% lao động, chiếm 13,0% tổng tài sản và tạo ra 15,8% doanh thu thuần.

"Theo đó, VPE500 có thể coi như lực lượng dẫn dắt và tạo ảnh hưởng trên thị trường và kết quả hoạt động của nhóm DN này có thể coi như hàn thử biểu của khu vực DN tư nhân trong nước", ông Trần Toàn Thắng nhấn mạnh.

Tuy nhiên, năng suất lao động (NSLĐ) của VPE500 không tăng nhanh như quy mô. Qua đó, cho thấy nhóm DN lớn đang phát triển dựa trên mở rộng sản xuất hơn là theo chiều sâu. NSLĐ của VPE500 chỉ tăng khoảng 5,3%/năm, không quá vượt trội so với mức 4,6%/năm của DN tư nhân trong nước khác và thấp hơn tốc độ tăng trưởng NSLĐ của DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và DN nhà nước.

Ảnh hưởng của VPE500 tới các DN khác

Báo cáo chỉ ra rằng, VPE500 có nền tảng về công nghệ, thiết bị, máy móc cao hơn so với các DN tư nhân trong nước khác. Tỷ lệ DN thuộc VPE500 tự phát triển máy móc, công nghệ cao hơn so với DN tư nhân khác. Nhóm này cũng có tỷ lệ tự động hóa, số hóa cao hơn các DN còn lại.

Điều này cho thấy DN lớn đã và đang là lực lượng chủ đạo của khu vực tư nhân trong cải thiện năng suất dài hạn cũng như phát triển và ứng dụng công nghệ.

Đặc biệt, VPE500 có mối liên kết khá tốt với các DN trong nước nói chung. Về cơ cấu nhà cung cấp nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước, DN tư nhân trong nước thiên nhiều hơn vào các DN trong nước, trong khi tỷ lệ cung cấp từ các DN FDI ít hơn so với DN thuộc VPE500. Các DN tư nhân khác có phạm vi hẹp hơn, tập trung vào các nhà cung cấp trong tỉnh, trong vùng, trong khi đó tỷ lệ DN thuộc VPE500 có nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cao hơn gấp gần 4 lần so với DN tư nhân khác.

Ngoài ra, VPE500 có tác động lan tỏa về năng suất và lương tới các DNTN trong nước, song có thể tạo ra tác động chèn lấn nhất định với DNTN trong nước. VPE500 trong cùng ngành có tác động tiêu cực về NSLĐ tới các DNTN khác. Khi quy mô của khối VPE500 tăng khoảng 1% làm cho NSLĐ của DNTN khác giảm đi 0,9%, cho thấy cạnh tranh giữa hai nhóm DN là khá gay gắt. DNTN trong nước có thể bị ảnh hưởng tiêu cực do cạnh tranh lao động, nguồn lực và thị trường với VPE500...
 
Cần chính sách cụ thể

Đại diện nhóm nghiên cứu nhấn mạnh, mặc dù DNTN ở Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, nhóm VPE500 của Việt Nam chưa trở thành lực lượng hùng mạnh như kỳ vọng, chưa có nhiều DNTN lớn đạt được tầm cỡ thế giới.

Trên cơ sở phân tích VPE500 và quan hệ với DNTN trong nước nói chung, nhóm nghiên cứu cho rằng cần thiết phải có những chính sách cụ thể hơn nữa để xây dựng được một lực lượng các DNTN lớn, phát triển ổn định, chống chịu được các cú sốc lớn từ bên ngoài, và làm tăng hiệu quả của toàn nền kinh tế.

Các chính sách với DN trong thời gian tới cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng không chỉ tạo thuận lợi với DN trong gia nhập thị trường mà còn giúp DN sống sót và tăng trưởng. Đặc biệt cần khuyến khích các DN lớn đầu tư để cải tạo năng suất chuyển dần sang tăng trưởng theo chiều sâu.

Có chính sách kinh tế thúc đẩy liên kết DN, khuyến khích doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI liên doanh, liên kết với các DN nhỏ và vừa trong nước. Đồng thời nâng cao năng lực DN tham gia mạng lưới sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.

Cần khuyến khích và tạo phong trào để từng địa phương xây dựng được các DNTN hàng đầu của mình dựa trên những lợi thế địa phương và vươn tầm hoạt động trên phạm vi cả nước.

Nguyệt Minh
Nguồn tin: https://doanhnghiepvn.vn/doanh-nghiep/can-co-chinh-sach-cu-the-cho-cac-doanh-nghiep-tu-nhan-lon/20220810114224048