Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể chủ trì Hội nghị - Ảnh: VGP/PT |
Báo cáo tại Hội nghị, ông Lê Đỗ Mười, Viện trưởng Viện Chiến lược và phát triển GTVT cho biết, Bộ GTVT đã phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương trong vùng tập trung nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, đến nay cơ bản đã hoàn thành các mục tiêu đề ra trong Nghị quyết.
Các tuyến quốc lộ bị chia cắt bởi hệ thống sông lớn đã được xây dựng công trình cầu vượt sông; hình thành các cao tốc, quốc lộ trục dọc và trục ngang phân bổ trên toàn vùng; quy hoạch một số sân bay tại các khu vực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng (Cần Thơ, Cà Mau, Kiên Giang). Hệ thống cảng biển, cảng thủy nội địa được quy hoạch phù hợp với điều kiện tự nhiên và nhu cầu vận tải đã mở ra cho vùng ĐBSCL thêm nhiều phương thức vận tải để kết nối với cả nước và quốc tế.
Về đường bộ, ĐBSCL đã cơ bản hình thành các tuyến trục dọc nối ĐBSCL với TPHCM và các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, các tuyến trục ngang kết nối nội vùng. Đến năm 2020, hệ thống quốc lộ trong vùng có tổng chiều dài khoảng 2.688 km, tăng 52% so với năm 2002.
Về đường thủy nội địa - thế mạnh của vùng ĐBSCL - cũng được ưu tiên với tổng chiều dài mạng lưới đường thủy nội địa hơn 6.100 km, trong đó, 2.990 km do Trung ương quản lý. Nhiều công trình trọng điểm về đường thủy nội địa đã được đầu tư đưa vào khai thác như: Kênh Chợ Gạo (giai đoạn 1), âu tàu Rạch Chanh (Long An) cũng như các công trình thuộc dự án phát triển cơ sở hạ tầng vùng ĐBSCL (WB5) đã nâng cao năng lực vận tải thủy trong vùng.
Về hàng hải, khu vực đã phát triển được hệ thống gồm 12 cảng biển với 37 bến cảng, tổng chiều dài 7.642 m, 23 bến phao và 16 khu neo đậu chuyển tải, khu tránh, trú bão. Nhiều cảng biển, bến cảng đã được đầu tư xây mới trong suốt 20 năm qua, điển hình như bến cảng Cái Cui - Cần Thơ, bến cảng tổng hợp Vinalines Hậu Giang, bến cảng Trà Cú - Trà Vinh đáp ứng cho tàu trọng tải đến 20.000 DWT; bến cảng Mỹ Thới - An Giang đáp ứng cho tàu trọng tải đến 10.000 DWT...
Về hàng không, các sân bay gồm: Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ, Phú Quốc, Cảng hàng không Cà Mau, Cảng hàng không Rạch Giá đều đã được đầu tư nâng cấp với tổng công suất 7,45 triệu hành khách/năm, 12.000 tấn hàng hóa/năm.
“Tuy nhiên, tốc độ đầu tư xây dựng hệ thống đường bộ cao tốc còn chậm, chưa đạt tiến độ theo Nghị quyết 21 đề ra. Mạng lưới quốc lộ chưa đáp ứng yêu cầu vận tải, nhiều tuyến có tiêu chuẩn thấp, quy mô cấp IV, cấp V dẫn đến tình trạng thường xuyên xảy ra tình trạng ùn tắc, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông. Cùng với đó, hệ thống hạ tầng kết nối, hạ tầng sau cảng biển, hạ tầng phục vụ logistics còn thiếu đồng bộ với các cảng chưa đáp ứng yêu cầu vận tải biển của hàng hóa trong vùng, chưa hình thành các trung tâm logistics quy mô lớn trong vùng và thiếu cảng biển có thể tiếp nhận tàu biển trọng tải lớn (từ 50.000 DWT trở lên)...”, ông Lê Đỗ Mười nhìn nhận.
Ông Trần Trí Quang, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp cho rằng, Bộ GTVT cần đầu tư hạ tầng giao thông có tính kết nối liên vùng ở khu vực này nhằm giảm chi phí logistics để tăng sức cạnh tranh; kế hoạch trung hạn tập trung vào cao tốc Đông-Tây và cao tốc Bắc-Nam xuống tận Cà Mau; đầu tư đường thủy nội địa quốc gia do có hệ thống sông ngòi thuận lợi. Đặc biệt, cần đầu tư các cảng biển và đường sắt bởi tỉ lệ số km đường cao tốc của vùng rất thấp, cần có giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn này.
Cùng quan điểm, ông Trần Anh Thư, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, cho rằng, một trong những lý do khiến khu vực ĐBSCL màu mỡ lại kém hấp dẫn nhà đầu tư do yếu kém về hạ tầng và logistics. Do đó, cần huy động tối đa nguồn lực về đầu tư kinh tế (BOT, PPP) vào đầu tư giao thông bằng cơ chế đặc thù để giảm áp lực dồn về ngân sách đầu tư công cho xây dựng hạ tầng.
Kênh Chợ Gạo là một trong những dự án đường thủy nội địa quan trọng của khu vực ĐBSCL. |
Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể cho biết, ĐBSCL có gần 20 triệu người dân sinh sống, thiên nhiên ưu đãi, rất phù hợp để phát triển nông nghiệp nhưng tốc độ phát triển không đạt kỳ vọng. Vì vậy, Nghị quyết 21 được Bộ Chính trị ban hành kịp thời và triển khai đồng bộ cho cả 13 tỉnh ĐBSCL, trong đó ngành giao thông-vận tải có trách nhiệm tham mưu để hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế vùng tốt hơn.
Để bảo đảm tính khả thi trong việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch phát triển giao thông vận tải vùng ĐBSCL, Bộ GTVT đã đề xuất một số cơ chế, chính sách phù hợp nhằm phát huy tối đa thế mạnh của vùng; khai thác mọi nguồn lực; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm.
Trong đó, Bộ trưởng lưu ý các đơn vị chuyên môn phải tập trung vào một số dự án mang tính đột phá như cảng Trần Đề, cao tốc Cần Thơ-Cà Mau, Châu Đốc-Cà Mau, Kiên Giang-Bạc Liêu... đưa ra mốc thời gian hoàn thành và thu xếp vốn để các bộ, ngành thảo luận. Đồng thời, đẩy mạnh tốc độ xây dựng đường cao tốc, phát triển vận tải thủy vốn là đặc trưng và thế mạnh của vùng nhằm giảm chi phí logistics, tăng sức cạnh tranh, đưa vùng ĐBSCL phát triển bền vững.
“Chúng ta đều mong muốn vùng ĐBSCL phát triển tương xứng với những ưu đãi mà thiên nhiên ban tặng cho khu vực, đồng thời giữ vững an ninh quốc phòng, do đó, việc tổ chức thực hiện giai đoạn tiếp theo phải cụ thể đối với từng bộ, ngành. Các đơn vị tập trung xây dựng kế hoạch làm cao tốc, đề xuất các giải pháp huy động vốn; cơ chế rút ngắn thời gian chuẩn bị đầu tư...,” Bộ trưởng yêu cầu.
Bộ GTVT đưa ra mục tiêu đến năm 2030 sẽ đầu tư 5 đoạn cao tốc Bắc-Nam với tổng chiều dài 190 km; các tuyến Châu Đốc-Cần Thơ-Sóc Trăng dài 191 km; Hà Tiên-Rạch Giá dài 100 km; An Hữu-Cao Lãnh dài 30 km; đầu tư hệ thống đường bộ ven biển (qua 7 tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang với tổng chiều dài 788 km); tuyến đường sắt TPHCM-Cần Thơ dài khoảng 174 km; tập trung phát triển 4 hành lang vận tải thủy nội địa, 20 tuyến vận tải thủy nội địa chính với tổng chiều dài 2.570 km, 13 cụm cảng hàng hóa; đầu tư các cảng biển ở vùng tiếp nhận tàu biển tải trọng lớn; nâng cấp, mở rộng công suất khai thác các sân bay…
Phan Trang
Theo http://baochinhphu.vn/Kinh-te/Day-manh-xay-cao-toc-phat-trien-van-tai-thuy-the-manh-cua-DBSCL/450356.vgp