Kinh tế trọng cung nhấn mạnh tầm quan trọng của phía cung trong phát triển kinh tế và tăng trưởng dựa vào cơ chế thị trường (Ảnh: M.P)
Mô hình kinh tế trọng cung và kinh nghiệm một số quốc gia
Vào giữa những năm 1970, thuật ngữ “kinh tế trọng cung” bắt đầu xuất hiện đối lập với các chính sách kinh tế trọng cầu của Keynes.
Kinh tế trọng cung nhấn mạnh tầm quan trọng của phía cung trong phát triển kinh tế và tăng trưởng dựa vào cơ chế thị trường, coi đây là cơ chế phân bổ hiệu quả giữa các nguồn lực xã hội.
Mô hình kinh tế trọng cung xoay quanh việc khuyến khích nhà sản xuất mở rộng quy mô, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, tăng tính thị trường của nền kinh tế, giảm can thiệp của nhà nước đối với thị trường, tháo gỡ rào cản đầu tư, thực hiện cải cách chương trình an sinh xã hội, khuyến khích đầu tư cung cấp hàng hóa công cộng.
Mô hình kinh tế trọng cung áp dụng hiệu quả ở các quốc gia Anh, Mỹ, Pháp, Hàn Quốc từ những năm 1970 - 2009.
Sau đại dịch COVID-19, nền kinh tế toàn cầu có nhiều rủi ro về suy thoái, nguồn lực giảm đặt ra yêu cầu nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Với mô hình kinh tế trọng cung hiện đại (Modern Supply Side Economis- MSSE), Mỹ đã tích cực thực hiện mô hình kinh tế trọng cung như đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng đường bộ, đường sắt, viễn thông, cảng biển, công nghệ thông tin, năng lượng sạch, đầu tư khoa học công nghệ, tăng cường đầu tư nâng cao nguồn nhân lực, giáo dục.
Kết quả tăng trưởng GDP năm 2023 của Mỹ tương đối ổn định; Quý I, Quý II: 2,1%; Quý III, IV: 5,2%, cao hơn mức dự báo là 5% hoặc đối với Trung Quốc.
Tại Trung Quốc, cuối năm 2015, nước này tập trung cải cách cơ cấu phía cung, tập trung sản xuất, tăng năng suất lao động, cải tiến công nghệ. Năm 2016, Trung Quốc đóng cửa các nhà máy thép và các mỏ than lạc hậu, giảm hàng tồn kho, ban hành chính sách ưu đãi thuế, phát triển doanh nghiệp, áp dụng công nghệ cao trong lĩnh vực năng lượng, vận tải, sản xuất công nghiệp.
Một số sản phẩm mới như xe điện, tua bin gió, thiết bị hàng không vũ trụ, chất bán dẫn, công nghệ xây dựng công trình đường trên cao, công trình kiến trúc cao tầng, đường sắt cao tốc… các chính sách này đã và đang đưa Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới.
Hoàn thiện chính sách pháp luật về tài chính, thúc đẩy kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững
Trên cơ sở kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp để thúc đẩy kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững. Trong đó, việc hoàn thiện chính sách pháp luật về tài chính đóng vai trò quan trọng, tập trung và nhóm các giải pháp như sau:
Thứ nhất, quản lý điều hành chính sách tài khóa hợp lý, hiệu quả: Cần hoàn thiện đồng bộ chính sách thuế (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản, …) gắn cơ cấu nguồn thu ngân sách với phương châm tăng tính chủ đạo ngân sách trung ương, tăng tính chủ động của ngân sách địa phương.
Đặc biệt chú trọng ưu đãi thuế đối với các dự án áp dụng công nghệ cao, dự án đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp áp dụng công nghệ cao phát triển.
Ưu tiên nguồn lực để phát triển cơ sở hạ tầng, chú trọng hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt cao tốc, sân bay, cảng biển hiện đại, cửa khẩu gắn với hải quan thông minh, logistic; phát triển công nghiệp công nghệ cao, chuyển đổi số, nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển giáo dục, đào tạo y tế, quan tâm an sinh xã hội.
Thứ hai, xây dựng, quản lý thị trường tài chính minh bạch, đúng đắn, bền vững: Tập trung phát triển mạnh mẽ, minh bạch, bền vững, ổn định và là kênh huy động trung và dài hạn cho nền kinh tế, thị trường vốn liên thông quốc tế nhằm huy động nguồn vốn lãi suất thấp, thời gian vay dài, điều kiện ưu đãi các dự án trong nước phát triển nhanh, hiệu quả từ các ngân hàng, quỹ tài chính quốc tế cho các dự án trong nước thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thứ ba, tập trung cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đồng thời phát triển doanh nghiệp tư nhân theo hướng hiệu quả, tăng năng lực cho nền kinh tế. Sửa đổi Luật Quản lý sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp và các bộ luật có liên quan, tạo môi trường thu hút đầu tư thuận lợi và cạnh tranh, bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp, không phân biệt đối xử.
Tăng cường đầu tư có hiệu quả vốn vào DNNN và các ngân hàng thương mại nhà nước nhằm đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tích cực cổ phần hóa, bán vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước nhằm thu hút tư nhân vào đầu tư quản trị các DNNN sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
Tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi để thu hút đầu tư, giúp doanh nghiệp cổ phần, tư nhân phát triển, tiếp cận khoa học công nghệ, thu hút nhân lực trình độ cao, đáp ứng hiệu quả gắn với áp dụng công nghệ cao nguồn vốn để sản xuất kinh doanh hiệu quả. Khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu sạch, năng lượng sạch, nguồn gốc xuất xứ rõ, khai thác tài nguyên tiết kiệm, áp dụng công nghệ cao để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, nâng cao giá trị, thúc đẩy xuất khẩu.
Thứ tư, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trẻ tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút nhân tài nhằm đáp ứng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ năm, hoàn thiện chính sách, đặc biệt chính sách tài chính để phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt hạ tầng năng lượng sạch, hạ tầng giao thông hiện đại, chống biến đổi khí hậu, hạ tầng công nghệ thông tin…
Thúc đẩy sáng tạo, áp dụng khoa học công nghệ hiện đại, tăng năng suất lao động, khuyến khích doanh nghiệp phát triển, tăng năng lực và phát triển nguồn nhân lực tốt.
Khi chúng ta có 1 nền kinh tế mạnh, phát triển bền vững hệ thống doanh nghiệp có năng lực tốt, sức cạnh tranh cao thì sản phẩm của chúng ta sẽ có đầy đủ điều kiện để tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế; xuất nhập khẩu trở thành động lực phát triển kinh tế./.
TS. Hồ Đức Phớc - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính
Nguồn: dangcongsan.vn