Đẩy lùi và kiểm soát đại dịch COVID-19
Kể từ khi trường hợp nhiễm COVID-19 đầu tiên trên thế giới được phát hiện tháng 12-2019 và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xác định COVID-19 là đại dịch ngày 11-3-2020, Việt Nam và thế giới đã thực hiện nhiều biện pháp đối phó với dịch bệnh COVID-19. Tính đến ngày 13-7-2020, trong khi nhiều nước gặp khó khăn trong phòng, chống dịch bệnh, với hơn 13 triệu ca nhiễm, hơn 571.000 ca tử vong và vẫn còn tăng nhanh hằng ngày, thì Việt Nam mới có 372 ca nhiễm, trong đó có 350 bệnh nhân đã xuất viện và chưa ghi nhận trường hợp tử vong. Đạt được kết quả quan trọng này là do chúng ta sớm nhận thức đúng, có đối sách phù hợp, kịp thời, tập trung chỉ đạo liên tục, hành động quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả với tinh thần quyết tâm, đoàn kết, đồng lòng với sức mạnh của toàn dân tộc, sự ủng hộ, chung tay hành động của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đến nay, chúng ta đã đẩy lùi và kiểm soát được dịch bệnh, ngăn chặn được sự lây lan trong cộng đồng và đang chủ động, tích cực chuyển sang giai đoạn khắc phục tác động của đại dịch COVID-19 để phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Các tổ chức quốc tế, như Liên hợp quốc, WHO,... nhiều quốc gia và nhiều hãng truyền thông lớn, uy tín trên thế giới đã đánh giá Việt Nam là mô hình chống dịch bệnh hợp lý, hiệu quả, chi phí thấp, được đông đảo người dân và doanh nghiệp ủng hộ.
Nhân tố quyết định cho sự thành công này là nhờ có sự chỉ đạo đúng đắn, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự thống nhất về nhận thức và chỉ đạo quyết liệt, triển khai hành động kịp thời của cả hệ thống chính trị; sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng của ban chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh COVID-19 các cấp, các ngành; sự đồng tình, ủng hộ và chung tay hành động của người dân và cộng đồng doanh nghiệp và đặc biệt là quyết tâm cao, nỗ lực lớn, sâu sát của cấp ủy, chính quyền các cấp. Điều này đã thực sự tạo được tinh thần đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp, nguồn lực, trí tuệ của cả nước, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tương thân, tương ái của mỗi người dân, góp phần củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo, quản lý sáng suốt của Đảng, Nhà nước và khẳng định bản chất ưu việt, tốt đẹp của chế độ ta. Việt Nam cũng đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ của bạn bè, cộng đồng quốc tế; đồng thời, đáp ứng lời đề nghị của lãnh đạo một số nước, chúng ta đã hợp tác, cùng chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ một số vật tư, thiết bị y tế, thể hiện tình cảm chân thành với nhiều quốc gia bạn bè, đối tác, đề cao vai trò Chủ tịch ASEAN, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới phát triển kinh tế - xã hội đất nước
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta có độ mở lớn; hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng; quá trình cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm; tính tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế trước những biến động bất thường của thế giới còn hạn chế..., đại dịch COVID-19 không chỉ gây thiệt hại nặng nề đến hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là các lĩnh vực như dịch vụ, du lịch, vận tải (nhất là hàng không), ăn uống, lưu trú, giải trí,... chuỗi cung ứng và lưu chuyển thương mại bị gián đoạn, mà còn ảnh hưởng mạnh đến tâm lý và đời sống của nhân dân.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II-2020 chỉ tăng 0,36% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng thấp nhất của quý II các năm trong giai đoạn 2011 - 2020. GDP 6 tháng đầu năm 2020 tăng 1,81%, là mức tăng thấp nhất của 6 tháng đầu các năm trong giai đoạn 2011 - 2020, tuy nhiên vẫn là mức tăng cao nhất của khu vực châu Á.
Trong 6 tháng đầu năm, cả nước có hơn 62 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 697,1 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 507,2 nghìn lao động, giảm 7,3% về số doanh nghiệp, giảm 19% về vốn đăng ký và giảm 21,8% về số lao động so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 6 tháng đầu năm 2020 đạt 11,2 tỷ đồng, giảm 12,5% so với cùng kỳ năm trước. Đồng thời, cũng có đến 29.200 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động kinh doanh, tăng 38,2% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6 tháng đầu năm 2020 tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2019, mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016 - 2020.
Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, nguồn cung nguyên liệu đầu vào bị đứt đoạn, khan hiếm và thị trường đầu ra giảm mạnh, nhất là thị trường xuất khẩu. Trong bối cảnh đó, chi phí để duy trì hoạt động của doanh nghiệp trở thành gánh nặng trong khi dòng tiền dần thiếu hụt, nhất là thiếu vốn lưu động để trả lương lao động (đây là gánh nặng lớn nhất), lãi vay, thuê mặt bằng và chi hoạt động thường xuyên khác; doanh thu sụt giảm, thậm chí thua lỗ, nhiều doanh nghiệp đã rất kiên cường, nỗ lực, sản xuất linh hoạt, bảo vệ người lao động rất đáng hoan nghênh, trân trọng. Tuy nhiên, khả năng cầm cự của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ còn hạn chế.
Hoạt động giáo dục - đào tạo gặp nhiều khó khăn. Quyết định cách ly xã hội cho 21 triệu học sinh và sinh viên nghỉ học là một quyết định rất quan trọng, kịp thời trong phòng, chống dịch lây lan, tuy nhiên việc này không những ảnh hưởng đến kế hoạch, nền nếp dạy và học của nhà trường, của học sinh, sinh viên mà còn ảnh hưởng đến phụ huynh, đặc biệt là phụ huynh ở cấp mầm non và tiểu học.
Trong bối cảnh đó, các biện pháp quyết liệt phòng, chống dịch bệnh và khôi phục hoạt động kinh tế - xã hội, giảm thiểu thiệt hại trong thời gian qua đã tạo nên những tác động tích cực đối với nền kinh tế nước ta trên nhiều phương diện và mở ra nhiều cơ hội phát triển mới: 1- Khả năng ứng phó với dịch bệnh tại các tuyến được tăng cường, năng lực ngành y tế, nhất là y tế công cộng được cải thiện; 2- Niềm tin của nhân dân và doanh nghiệp vào sự lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước cũng như lòng tự hào dân tộc tăng lên rất cao; 3- Quan hệ đối ngoại của Việt Nam được tăng cường thông qua các nỗ lực chủ động hợp tác quốc tế đối phó với đại dịch COVID-19; 4- Xuất, nhập khẩu mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng chỉ bị giảm nhẹ và thặng dư thương mại đạt 4 tỷ USD (mức cao nhất so với cùng kỳ 4 năm qua; nhiều mặt hàng, như trang thiết bị y tế, gạo, nông sản,... đã tìm được cơ hội để thâm nhập vào các thị trường mới; 5- Quá trình chuyển đổi số được ưu tiên phát triển mọi nơi trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử, kinh doanh số, Chính phủ điện tử, hoạt động khoa học - công nghệ gắn với công tác phòng, chống dịch bệnh được đẩy mạnh.
Đồng thời, việc sắp xếp lại các chuỗi cung ứng, sản xuất toàn cầu theo hướng đa dạng hóa, giảm bớt sự phụ thuộc vào một số thị trường sẽ là cơ hội cho những quốc gia như Việt Nam, nếu chúng ta thành công trong việc tạo dựng niềm tin và khẳng định năng lực sản xuất, cung cấp nguyên liệu đầu vào cùng với bảo đảm nguồn nhân lực, hạ tầng cơ sở,... thì đây sẽ là cơ hội, điều kiện tốt để thu hút dòng vốn đầu tư có chất lượng, củng cố nền tảng phát triển nhanh, bền vững.
Hiện nay, Việt Nam đã đẩy lùi và kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19, các hoạt động kinh tế - xã hội đang nhanh chóng thiết lập trạng thái bình thường mới. Đất nước đang đứng trước vận hội mới, thời cơ mới khi trật tự thế giới, phương thức sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, hành vi, tâm lý của người dân và doanh nghiệp đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Đại dịch COVID-19 cũng tạo cơ hội để nước ta có thể tham gia ngay từ đầu vào các chuỗi giá trị mới được tạo lập hoặc tái lập với vị thế chủ động, tham gia thiết lập các quy ước trong các chuỗi giá trị này, nhất là tại các thị trường lớn, như các nước trong khuôn khổ Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam (EVFTA). Qua kết quả phòng, chống dịch bệnh COVID-19, hình ảnh Việt Nam đang được nâng cao, cùng với những điều kiện về ổn định chính trị, kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư, kinh doanh đang được cải thiện mạnh mẽ; Việt Nam là một điểm đến tin cậy của khách quốc tế, nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thực hiện nhiệm vụ kép: Vừa phòng, chống hiệu quả đại dịch COVID-19, vừa phát triển kinh tế - xã hội đất nước
Đại dịch COVID-19 năm 2020 là một bài học lớn về ứng phó dịch bệnh của các quốc gia. Quốc gia vượt qua là quốc gia biết cách thích ứng và kiểm soát tốt dịch bệnh, phục hồi kinh tế - xã hội nhanh, tận dụng tốt cơ hội mới trong bối cảnh chưa có vắc-xin, thuốc đặc trị bệnh này.
Mục tiêu đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là chúng ta phải kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19, không để lây nhiễm trong cộng đồng, đồng thời chủ động chuẩn bị các kịch bản, phương án, kế hoạch phục hồi nhanh và phát triển kinh tế - xã hội bền vững trong và ngay sau khi kết thúc dịch bệnh COVID-19. Khắc phục, tháo gỡ nhanh những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh; bảo đảm an sinh xã hội, đời sống, sinh kế, việc làm đối với người lao động, người nghèo, người yếu thế. Tìm kiếm và phát huy các động lực tăng trưởng mới có thể thay thế, bù đắp những tổn thất do dịch bệnh gây ra. Xây dựng các chính sách đặc biệt, chuẩn bị nguồn lực để hỗ trợ một số ngành kinh tế nhằm củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng cơ hội chiếm lĩnh thị trường. Xác định rõ các cơ hội và thách thức để đưa ra các giải pháp tận dụng, chuyển hóa cơ hội và thách thức thành các động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy nhanh hơn quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có chuyển đổi số. Nâng cao năng lực nội tại và sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng tầm và cải thiện thứ hạng quốc gia trên một số ngành, lĩnh vực.
Dịch bệnh COVID-19 và tác động của nó là chưa từng có trên toàn cầu, các quốc gia, ngay cả các cường quốc kinh tế đang phải có các biện pháp mạnh, vượt ra khỏi các quy định bình thường. Đối với Việt Nam trong thời gian tới, phải triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, đường lối, nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước về phòng, chống đại dịch COVID-19, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; trong đó cần thực hiện ngay các chính sách, giải pháp mạnh, áp dụng các quy trình thủ tục đặc thù trong bối cảnh đại dịch COVID-19; với một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, cần tập trung đẩy nhanh tiến độ và triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ, chủ yếu bao gồm gói chính sách tiền tệ - tín dụng, gói hỗ trợ về tài khóa, gói hỗ trợ an sinh xã hội. Các gói này đang được tích cực triển khai, nhưng còn chậm, còn nhiều rào cản; nên cần tháo gỡ ngay những điểm nghẽn này, đề xuất mở rộng gói tài khóa phù hợp, tăng khả năng tiếp cận vốn, hỗ trợ cả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và doanh nghiệp lớn có đóng góp, lan tỏa, tạo nhiều việc làm. Kiên quyết không để tình trạng chậm trễ và hành vi trục lợi đối với nhiệm vụ cấp bách này.
Thứ hai, thúc đẩy mạnh mẽ cỗ máy tăng trưởng kinh tế của nước ta được ví như cỗ xe tam mã, bao gồm xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng; làm sao để các lĩnh vực này kéo cỗ máy tăng trưởng đạt mức cao nhất có thể.
Theo đó, cần đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là các thị trường còn nhiều dư địa sau đại dịch, như Mỹ, Liên minh châu Âu, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Đây là 6 thị trường chiếm đến 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; nhất là thị trường các nước trong CPTPP và EVFTA (sẽ có hiệu lực từ ngày 1-8-2020).
Đồng thời, đẩy mạnh giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công. Kiên quyết đẩy nhanh khâu giải phóng mặt bằng, bố trí kịp thời nguồn vốn đối ứng và đẩy nhanh tốc độ giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), gắn chặt chỉ tiêu giải ngân hiệu quả đầu tư công với đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu. Đánh giá tổng thể lại các quy định về bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài,... xem xét quy định tỷ lệ nợ công/GDP phù hợp để tăng nguồn lực cho đầu tư đi đôi với việc tăng cường kiểm soát chặt chẽ hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công. Chuẩn bị và xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025, phục vụ phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; trong đó tập trung nguồn vốn đầu tư các công trình trọng điểm, có sức lan tỏa lớn, giải quyết nút thắt về kết cấu hạ tầng, ứng phó với biến đổi khí hậu, sạt lở, xâm nhập mặn và giải quyết các vấn đề phát triển của quốc gia, vùng và liên kết vùng, tạo thuận lợi thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); tiếp tục xem xét, chuyển đổi hình thức đầu tư một số dự án đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) sang đầu tư hoàn toàn từ ngân sách nhà nước và ngược lại, bảo đảm tính công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, quản lý và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư đối với từng dự án. Có thể coi giải ngân vốn đầu tư công (kể cả vốn hỗ trợ phát triển chính thức - ODA) là nhiệm vụ cấp bách mà các cấp, các ngành cần tập trung chỉ đạo đạt kết quả. Chính phủ đã đôn đốc mạnh mẽ và có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời.
Đối với thu hút đầu tư mới, cần chuẩn bị kỹ các điều kiện thiết yếu, như kết cấu hạ tầng (nhất là kết cấu hạ tầng khu công nghiệp cùng với dịch vụ đi kèm, hạ tầng viễn thông), mặt bằng; chính sách, quy trình thủ tục nhanh gọn, nhất quán, ít thay đổi; phát triển nguồn nhân lực có tay nghề; xây dựng chính sách, bộ lọc tiêu chí thu hút đầu tư cụ thể, gắn với chiến lược phát triển quốc gia, vùng và địa phương; triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20-8-2019, của Bộ Chính trị, “Về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030”.
Đẩy mạnh kích cầu tiêu dùng nội địa; với quy mô tiêu dùng cá nhân của Việt Nam tương đương 82% GDP và đóng góp khoảng 12% GDP, cần nghiên cứu tập trung kích cầu một số ngành, lĩnh vực, như du lịch, bán lẻ, vận tải, lưu trú, ăn uống, chăm sóc sức khỏe,...; cùng với việc phát triển thị trường tín dụng tiêu dùng một cách lành mạnh, hiệu quả, giảm thiểu tệ nạn tín dụng đen.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện thể chế để khơi thông điểm nghẽn, giải phóng nguồn lực phát triển và nâng cao năng lực quản trị quốc gia.
Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và thi hành pháp luật; tháo gỡ vướng mắc trong thủ tục hành chính, đẩy nhanh thủ tục phê duyệt, điều chỉnh các chính sách mới, nhất là thủ tục khởi công, triển khai thực hiện ngay các dự án quy mô lớn, quan trọng, có tác động lan tỏa đến phát triển kinh tế - xã hội các địa phương, vùng, miền và ngành, lĩnh vực.
Thực hiện nhất quán và triệt để cải cách thủ tục hành chính, cải thiện thực chất môi trường đầu tư, kinh doanh; tập trung giải quyết các điểm nghẽn, bất cập làm cản trở doanh nghiệp phát triển, nhất là khu vực kinh tế tư nhân. Tiếp tục rà soát, kiên quyết loại bỏ điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính không cần thiết, các loại chi phí không chính thức. Đẩy nhanh tiến trình thực hiện cơ chế một cửa quốc gia gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, cung ứng dịch vụ công qua mạng, góp phần giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp và nhà đầu tư. Thực hiện chuyển đổi phù hợp cơ chế kiểm tra, giám sát từ tiền kiểm sang hậu kiểm, gắn với minh bạch hóa các chế tài xử lý có đủ sức răn đe; giảm số lượng, tránh chồng chéo trong thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các trường hợp nhũng nhiễu, thao túng khi thực thi công vụ, vi phạm quy định của pháp luật, làm chậm thời gian, tiến độ thực hiện các nhiệm vụ được giao; thay thế những cán bộ, công chức, viên chức yếu kém về năng lực, trình độ, không đáp ứng được yêu cầu.
Đẩy nhanh xây dựng chính sách, pháp luật đối với xây dựng chính quyền điện tử hướng tới Chính phủ số, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ số, công nghệ cao, mô hình kinh tế chia sẻ, giao dịch và quản lý tài sản kỹ thuật số, tiền điện tử, các phương thức thanh toán mới, hệ thống xác thực và định danh điện tử,... Trong đó, cần hết sức chú trọng các chính sách động lực về tài chính (thuế, phí, tiếp cận thị trường vốn khởi nghiệp, đầu tư mạo hiểm, trái phiếu doanh nghiệp, bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ...), chính sách tín dụng (tăng khả năng tiếp cận tín dụng, nhất là các lĩnh vực ưu tiên, các lĩnh vực kinh doanh mới...); coi đây là những công cụ, đòn bẩy để thúc đẩy phát triển mô hình kinh doanh mới, phát triển vật liệu mới, năng lượng mới và cả những động lực tăng trưởng mới.
Thứ tư, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và trong từng ngành, lĩnh vực, gắn với yêu cầu xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự cường, nâng cao khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế.
Trong trạng thái mới của nền kinh tế, cần tập trung phục hồi chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị bị đứt gẫy, chủ động hoặc tham gia xây dựng và phát triển chuỗi giá trị mới. Hết sức chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước, vừa tăng tính chủ động về nguyên, vật liệu đầu vào, vừa thay thế một phần nguồn nhập khẩu, tăng khả năng gắn kết với các doanh nghiệp FDI. Cơ cấu lại thị trường xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường, tránh phụ thuộc vào một thị trường; tăng cường xuất khẩu chính ngạch, đáp ứng tiêu chuẩn hàng hóa, quy định về truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý; trong đó, cần chú trọng xây dựng và triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc, đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn theo đúng thông lệ quốc tế, để kịp thời đáp ứng phương án chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường mới.
Cùng với đó, cần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp; trong đó, cần chú trọng nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo, thích ứng, năng lực sản xuất và phát triển thị trường tiêu thụ trong nước; phát triển lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao; tiếp tục tăng dự trữ ngoại hối; lành mạnh hóa hệ thống tài chính, trong đó chú trọng phát triển thị trường vốn, hoàn thiện hành lang pháp lý để doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro về tỷ giá, lãi suất, biến động thị trường,... Mỗi bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp cần chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện mạnh mẽ các chỉ số thể hiện năng lực quản trị (như Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh - PCI, Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh - PAPI, Chỉ số Quản trị doanh nghiệp - CGI...); nắm bắt tác động của môi trường hoạt động đối với nền kinh tế và từng địa phương, ngành, nghề sản xuất, kinh doanh cụ thể; tăng cường năng lực tổng hợp, phân tích, dự báo và xây dựng kịch bản ứng phó phù hợp khi cú sốc xảy ra.
Thứ năm, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực trong trạng thái mới.
Thực hiện hiệu quả, công khai, minh bạch các chính sách hỗ trợ an sinh xã hội, không để trục lợi chính sách, trong đó có Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 9-4-2020, của Chính phủ, “Về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” và Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg, ngày 24-4-2020, của Thủ tướng Chính phủ, Quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Tập trung điều chỉnh chính sách, kịp thời tháo gỡ vướng mắc; giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, bảo đảm đủ lực lượng lao động khi bước vào giai đoạn tăng cường sản xuất, kinh doanh sau dịch bệnh.
Đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành, lĩnh vực chủ yếu, gắn với thị trường, đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự chuyển dịch của các dòng vốn đầu tư, sự chuyển dịch cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu. Tập trung hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo, đào tạo lại người lao động đáp ứng yêu cầu mới.
Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, thực hiện các giải pháp phát triển thị trường lao động lành mạnh, đồng bộ, minh bạch, cạnh tranh và bền vững, đi đôi với tăng cường, nâng cao vai trò của Nhà nước trong quản lý, điều tiết cung - cầu trên thị trường lao động. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động; đẩy mạnh kết nối cung - cầu nhân lực trên phạm vi cả nước gắn với thị trường lao động quốc tế. Đồng thời, cần đổi mới mạnh mẽ công tác quy hoạch, đào tạo nghề, trong đó có tài chính huy động nguồn lực của cả Trung ương và địa phương.
Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, hướng tới phát huy lợi thế, thúc đẩy nội lực, liên kết vùng. Mở rộng những động lực tăng trưởng mới, phát triển kinh tế đô thị thuận lợi theo quy hoạch.
Phát huy thế mạnh các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn là đầu tàu cho phát triển kinh tế - xã hội, là trung tâm xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển vùng bền vững, đồng bộ, hệ thống, tạo tác động lan tỏa; nhất là các thành phố trực thuộc Trung ương, các tỉnh, thành phố có vị trí trung tâm trong các tam giác, tứ giác kinh tế.
Thúc đẩy liên kết nội vùng, liên vùng và quốc tế, tổ chức mô hình sản xuất, kinh doanh mới, hình thành các cụm, ngành, các chuỗi giá trị sản xuất và cung ứng; tạo không gian phát triển mới phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, cần sớm hoàn thiện thể chế liên kết vùng theo hướng hiệu quả, minh bạch, khả thi; phát triển quy hoạch, kết cấu hạ tầng giao thông, các dự án mang tính liên kết vùng, liên kết đầu tư - phát triển, bao gồm cả liên kết đầu tư giữa các doanh nghiệp - hợp tác xã - hộ gia đình và liên kết theo chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị. Trước mắt, cần có cơ chế thí điểm phát triển liên kết vùng, ngành và chuỗi; có đánh giá, tổng kết và nhân rộng theo lộ trình phù hợp. Đồng thời, mở rộng và thúc đẩy những động lực tăng trưởng mới như kinh tế đô thị, kinh tế số, kinh tế ban đêm, các ngành vật liệu mới, năng lượng mới,... những tiềm năng, thế mạnh mà Việt Nam cần củng cố và phát huy./.